Bạc là nguyên tố hóa học duy nhất được dùng để đặt tên cho một đất nước – Argentina vì đất nước này có nguồn tài nguyên bạc kim loại dồi dào. Kí hiệu hóa học của Bạc là Ag, bắt nguồn từ tiếng Latin có nghĩa là bạc, từ gốc Ấn - Âu có nghĩa là trắng hoặc sáng.

Sản lượng bạc thế giới mỗi năm là khoảng 17000 tấn, và chỉ 1/4 trong số đó được khai thác từ các mỏ bạc ở Mexico và Bolivia - các mỏ bạc chính cung cấp quặng acanthite (Ag2S). Hầu hết bạc thu được dưới dạng sản phẩm phụ của quá trình tinh luyện các kim loại khác như đồng (khoảng 10000 tấn).

Một kim loại quý

Bạc có khả năng dẫn điện, dẫn nhiệt và phản xạ tốt nhất trong tất cả các kim loại. Các đặc tính này của bạc được ứng dụng trong các thiết bị điện và điện tử, đá mài và gương. Kĩ thuật hàn bạc được dùng để gắn kim cương cắt công nghiệp vào đá mài giúp tăng hiệu quả tản nhiệt. Tính ánh kim của bạc cũng được ứng dụng trong việc sản xuất các loại cúp, trang sức và bộ đồ ăn như bát đĩa, dao dĩa,...

Tuy nhiên, bạc là một kim loại khá mềm và hoạt động, vì vậy nó rất dễ bị ăn mòn và xỉn màu. Kim loại này mềm đến mức có thể dát mỏng thành một tấm màng trong suốt, 1 gam bạc có thể kéo dài hơn 1 dặm. Cho đến thế kỉ 20, bạc vẫn là kim loại chủ yếu dùng để đúc tiền xu. Tuy nhiên, ngày nay, nó đã bị thay thế bởi một hợp kim cứng hơn là đồng-niken.

Hợp chất của bạc

Hợp chất của bạc có rất nhiều ứng dụng. Trước đây, người ta lợi dụng tính chất nhạy sáng của AgBr và AgI để sản xuất phim chụp ảnh. Khi tiếp xúc với ánh sáng, muối sẽ phân hủy thành các hạt bạc nhỏ li ti bám trên bề mặt phim. Khi hình ảnh có cường độ mong muốn, bạc bromua hoặc iotua không bị ảnh hưởng sẽ bị rửa trôi bằng dung dịch thiosulfate, để lại hình ảnh (âm tính), từ đó tạo ra các bức ảnh. Sau này, phim được thêm một số chất khử để tạo ra nhiều bạc hơn và bức ảnh thu được có chất lượng tốt hơn.

Dược điển từ thế kỉ 19 cho biết bạc đã được sử dụng như một loại thuốc kháng khuẩn và chống virus. Vào năm 1864, một bác sĩ sản khoa người Đức Dr F. Crede đã sử dung một loại thuốc nhỏ mắt có thành phần là AgNO3 để tiêu diệt các virus gây mù lòa cho trẻ sơ sinh. Dung dịch AgNO3 cũng được sử dụng để ngăn ngừa nhiễm trùng cho các bệnh nhân bị bỏng nặng. Cho đến khi penicillin xuất hiện, các hợp chất của bạc luôn được dùng để chống lại tất cả các loại bệnh, bôi ngoài da, tiêm và thậm chí là uống.

Ngày nay, các nhà khoa học đã chỉ ra rằng các chế phẩm từ bạc có thể tiêu diệt các vi khuẩn kháng kháng sinh phổ biến trong bệnh viện. Hơn thế nữa, các hạt bạc nano có thể tiêu diệt vi khuẩn, virus và nấm chỉ trong vài phút tiếp xúc bằng cách phá hủy liên kết S-S trong enzym và làm biến chất chúng.

Sơn chứa bạc nano được sử dụng trong các bệnh viện để ngăn sự phát triển của mốc. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 99,999% vi khuẩn đã bị tiêu diệt. Khi sử dụng loại sơn này ở bề mặt bên ngoài, nó phản xạ đến 90% ánh nắng mặt trời do đó nhiệt độ trong nhà sẽ thấp hơn.

Các nhà khoa học gần đây đã phát hiện ra rằng kết hợp bạc nano vào quần áo sẽ ngăn các vi khuẩn kết hợp với mồ hôi tạo thành các axit dễ bay hơi có mùi khó chịu mà chúng ta hay gọi là mùi cơ thể. Tất có chứa bạc nano có tác dụng làm giảm mùi hôi chân. Quần short boxer và quần đi xe đạp chứa bạc nano cũng có tác dụng tương tự.